Cải trời, Cải ma, Kim đầu tuyến, Cỏ
hôi - Blumea lacera (Burm.f.) DC. (B. glandulosa DC.), thuộc
họ Cúc - Asteraceae.
Mô tả: Cây thảo cao 0,40-1m, nhánh và
lá có lông hơi dính (Trĩiu), thơm. Lá mọc so le, mép khía
răng. Cụm hoa màu vàng ở ngọn, có nhánh dài, có lông dính;
hoa đầu có bao chung gồm 5-6 hàng lá bắc, phía ngoài là hoa
cái, phía trong là hoa lưỡng tính; hoa nhỏ 4-5mm. Quả bế dài
1mm, có 10 lằn và ở ngọn có lông mào trắng, dễ rụng.
Bộ phận dùng: Toàn cây - Herba Blumeae
Lacerae.
Nơi sống và thu hái: Loài của vùng Ấn
Độ - Malaixia, mọc hoang, hoang thường ở vườn, ruộng, bãi
trống, gặp nhiều từ Thừa Thiên - Huế trở vào đến các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long. Khi dùng làm thuốc, nhổ cả cây vào
mùa khô, đem rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô trong râm.
Thành phần hóa học: Cây chứa 0,085%
tinh dầu màu vàng mà trong thành phần có 66% cineol, 10%
fenchon và khoảng 6% citral.
Tính vị, tác dụng: Cải trời có vị đắng,
mùi thơm, tính bình, có tác dụng thanh can hoả, giải độc
tiêu viêm, tán uất, tiêu hòn cục, cầm máu, sát trùng. Ở Ấn
Độ, người ta cho là cây đắng, hạ sốt; dịch lá trừ giun, thu
liễm, hạ nhiệt, kích thích và lợi tiểu; rễ trừ tả.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Lá
Cải trời có mùi thơm, thường được thu hái làm rau luộc ăn
hoặc nấu canh với tép, với cá. Ở Java, người ta cũng dùng
chồi non nấu canh ăn. Người ta dùng toàn cây làm thuốc trị
tràng nhạc, nhọt lở, cầm máu vết thương, trị băng huyết,
chảy máu cam. Cũng dùng trị tức ngực, yếu phổi, ho có đờm,
táo bón, Mất ngủ, đái vàng và nóng.
Ở Ấn Độ, người ta dùng lá để trị đau
bụng và để lọc sạch nước uống. Ở Malaixia, người ta dùng cây
để xua đuổi sâu bọ nhờ tinh dầu thơm. Còn ở Ấn Độ, người ta
dùng cây để trục giun. Ở một số nơi, người ta dùng cây giã
ra vứt xuống nước để làm thuốc duốc cá.
Liều dùng : hàng ngày 10-30g, dạng thuốc
sắc. Dùng riêng hoặc phối hợp với Bồ công anh, Kim ngân hoa,
lá Sen, cành Tầm duột, Ngũ gia bì, Cam thảo. Cũng có thể nấu
thành cao sệt, uống lâu ngày, mỗi ngày độ 2 thìa canh pha
với nước; dùng ngoài làm cao dán.
Cải trời có mùi hăng hăng, cái mùi của
lá thuốc nam, vị hơi đắng nhưng hậu lại ngọt. Bởi cái mùi đặc biệt, vị
đặc biệt đó mà chắc chỉ những người quen ăn các thể loại rau mọc dại mới
phải lòng được. Nói là luộc, nhưng với cải trời ta chỉ nên trụng sơ, để
khi thưởng thức còn đủ giòn và thơm. Ngoài món luộc còn có thể nấu canh
chua, nấu canh tép, nấu với cá trê… toàn những món nói tên đã nghe ngan
ngát mùi rơm rạ quê nhà.
Phía Tây nắng vãn chiều rồi
Bậu không lo liệu vác nồi nấu cơm
Xuống ao mà xúc tép tôm
Ra vườn bứt đọt ngò om, cải trời
Bậu không lo liệu vác nồi nấu cơm
Xuống ao mà xúc tép tôm
Ra vườn bứt đọt ngò om, cải trời
Những câu ca dao mà nội hay đọc như thấm
vào tận da thịt thời tuổi nhỏ. Về quê vào mùa cải trời là một may mắn
cho những ai muốn tìm lại ký ức xưa. Chái bếp ngày nào nấu bằng lá khô
mù mịt khói, nên món rau cải trời xưa mẹ nấu hình như thơm hơn, vì trong
hương vị rau nồng nồng còn có mùi khói bếp. Chén đá và đũa tre không
làm cho bữa cơm trở nên nghèo nàn, vì món ăn bao giờ cũng tuyệt vời từ
cọng rau tươi non mới hái….
Rau cải trời – thứ rau tưởng bình dị
nhưng đủ sức gợi cho người xa quê đang dần quên hết chuyện mùa nào thức
nấy một cảm xúc khác lạ. Thứ cảm xúc đầy tự hào vì biết mình còn có một
miền quê.
ST
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét