Lá cách mọc nhiều ở ven sông, kênh rạch, nơi bãi bồi hoặc xen lẫn trong vườn cây,
là loại thân mộc, có thể gieo trồng bằng hạt hoặc giâm bằng hom. Chúng
phát triển rất nhanh, cây càng to, càng nhiều cành thì mới cho nhiều lá
non, đó chính là những lá người ta dùng để ăn sống.
-
Cây cách gắn liền với cuộc sống của người dân Nam bộ với các món ăn được sáng tạo từ thời khai hoang, mở đất. Người ta thường dùng lá cách non xào với xác đậu nành, món ăn mộc mạc của những người nghèo thế mà ngon không chỗ nào chê, nó vừa no bụng vừa là món ăn bổ dưỡng. Để chế biến món ăn này, chúng ta nạo một trái dừa khô, vắt lấy nước cốt cho vào chảo đun sôi, sau đó tùy theo khẩu phần mà cho xác đậu nành và giá đậu vào, nêm nếm muối, bột ngọt cho vừa ăn, tiếp tục xào cho ráo nước, cuối cùng mới cho lá cách xắt nhuyễn vào xào sơ vài bận thì nhắc xuống dùng nóng với nước tương hoặc nước mắm ớt đều được. Xác đậu nành là thứ người ta bỏ đi sau khi xay lấy hết nước cốt, thường người ta đem cho heo ăn, nhưng đối với những người dân nghèo quê lại là món ăn ngon vào những lúc sum họp gia đình khi biết khéo léo kết hợp nó với loại lá cách đặc trưng. Mùi thơm của lá cách, vị béo của xác đậu và nước cốt dừa cộng với chút nước tương cay cay tan trên lưỡi, ta ăn mà nghe ngây ngất hương quê.
Vào ngày Tết Đoan Ngọ, người dân quê thường hay đổ bánh xèo để cúng gia tiên và thết đãi con cháu. Chộn rộn nhất vẫn là tìm sao cho được rổ rau vườn với đủ thứ cải trời, cơm nguội, lá lụa, rau má, đọt sộp,... gì thì gì nhưng nếu thiếu lá cách coi như món bánh xèo giảm đi một phần ba sự hấp dẫn. Cao cấp hơn có món cá lia thia kho lạt, nếu cuốn bánh tráng mà rau sống đi kèm không có lá cách thì phần thi vị giảm đi mấy lần. Khoai lang mắm sống cuốn lá cách là món ăn đặc sản nổi tiếng của vùng sông nước Cửu Long. - Khoai lang luộc xong bóc bỏ vỏ, cặp với một con mắm sống (thường là cá
trèn, cá linh, cá sặt,...), rắc chút dừa nạo (loại dừa rám đã cứng vỏ
nhưng chưa khô) cùng một nhúm rau cải các thứ và lá cách là có ngay
miếng ngon khai vị trong bữa nhậu.
Cây cách dễ trồng nên hầu như nó có mặt ở khắp vùng nông thôn và hiện nay thì nó được xem như thứ rau đặc sản của vùng đồng bằng. Người ta bẻ những nhánh non đem ra chợ bán, có khi giá tăng vọt lên 10.000 đến 15.000 đồng/kg, nhưng không phải lúc nào cũng có. Những gì thuộc về của hiếm thì tự nhiên trở thành đặc sản và người ta rất quí trọng, cho nên trong việc khai thác họ cũng rất cẩn thận chăm chút, bẻ cành không dám bẻ sâu sợ cây chết. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm miệt vườn, hái lá cách phải bẻ luôn nhánh, bẻ càng sâu bao nhiêu thì chúng nẩy chồi nhiều bấy nhiêu, do đó sẽ cho ra nhiều đọt non hơn. -
Gọi là lá cách, nhưng nó vẫn luôn luôn gần gũi với cuộc sống đời thường, mà bất cứ ai một lần xa quê cũng sẽ còn nhớ mãi. - Cây vọng cách còn có tên cách núi, cây cách (Premna corymbosa Rottl. Ex Willd., họ cỏ roi ngựa (Verbenaceae), là cây vừa làm cảnh, vừa làm rau gia vị, vừa làm thuốc. Vì dáng cây, đặc biệt là dáng cành của vọng cách rất đẹp, dễ tạo dáng uốn lượn, lá vọng cách hầu như xanh quanh năm, màu sắc và dáng của ngù hoa đã tạo ra một loại cây cảnh sáng giá, được nhiều người ưa chuộng. Vọng cách thuộc loại cây gỗ nhỏ, chỉ cao khoảng 2 - 7m. Cành non vuông, đôi khi có gai hoặc lông mịn. Cành già nhẵn, màu hơi nâu, có rãnh, có lỗ bì. Lá mọc đối, hình trái xoan, dài 14 -16cm, rộng 10 - 12cm, đáy tròn hay hơi hình tim, mặt trên lá nhẵn bóng, mặt dưới có lông mịn trên các gân, mép lá nguyên hoặc hơi khía răng ở phía đầu lá. Khi vò, lá có mùi hăng hắc đặc biệt. Cụm hoa mọc ở đầu cành thành ngù dài 12 - 20cm, có lông mịn, hoa nhỏ màu trắng hay lục nhạt. Tràng có lông ở mặt ngoài, ống hình trụ. Quả hạch hình cầu hay hình trứng, khi chín có màu đen. Ở nước ta, vọng cách có ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ, Trung du và Tây Nguyên…; hiện được trồng nhiều ở Nam Định, Hải Dương, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình… Vọng cách có tới 15 loài, trong đó có 4 - 5 loài được dùng làm thuốc, thu hái lá quanh năm, tốt nhất là vào vụ xuân - hè, phơi khô, bảo quản để dùng dần.Về thành phần hóa học: lá và hoa vọng cách có tinh dầu, mùi thơm hăng hắc. Trong toàn cây, kể cả lá, thân và rễ vọng cách đều chứa hợp chất iridoid (premcoryosid), flavonoid, polysaccharid, đường khử… Ở vỏ thân còn có alcaloid: premnin, garianin và một isoxasol alcaloid là premnazol. Lá, thân và rễ vọng cách đều chứa nhiều Se, Mg, Fe, Mn, K… có lợi cho sức khỏe.
Theo y học cổ truyền, vọng cách có vị ngọt, tính mát, có tác dụng thanh can sáng mắt, tiêu độc, bổ can, tỳ, thông kinh, hoạt lạc, tán kết ứ, giảm sốt, lợi sữa, lợi tiểu, lợi tiêu hóa. Sau đây là một số cách dùng vọng cách làm thuốc:- Dùng lá bánh tẻ làm gia vị, ăn cùng với nem, chạo,… để tạo cảm giác vừa đắng nhẹ vừa thơm ngon, lại có tác dụng đề phòng đau bụng, sôi bụng, tiêu chảy.- Đau bụng lỵ, đau quặn bụng, nhất là khi đại tiện: lấy 40g lá tươi, rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt, uống ngày 2 lần, trước bữa ăn khoảng 1 giờ. Uống hằng ngày đến khi các triệu chứng thuyên giảm. Cũng có thể lấy lá khô (20-30g), 20g cỏ sữa, sắc uống hằng ngày. Trẻ em, tùy tuổi giảm lượng, có thể pha thêm chút đường cho dễ uống.- Viêm gan vàng da: lá vọng cách 40g, nhân trần 50g, diệp hạ châu 20g, cam thảo 12g. Sắc uống ngày 1 thang, uống vài tuần lễ, tới khi các triệu chứng thuyên giảm.- Phụ nữ sau sinh, da bị vàng, kém ăn: lá vọng cách, nhân trần, lá cối xay mỗi vị 12g. Sắc uống ngày 1 thang.- Tắc tia sữa: lá vọng cách hoặc phối hợp với lá bồ công anh mỗi thứ 30 - 40g, rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt cho uống. Bã đắp ngoài, ngày 1 lần. Làm nhiều ngày tới khi các triệu chứng thuyên giảm.- Sau đẻ ít sữa hoặc các trường hợp tiểu tiện khó khăn: lá vọng cách 30g, sắc uống hoặc phối hợp với thông thảo 12g, sắc uống ngày 1 thang, tới khi các triệu chứng thuyên giảm.
Theo Sức khỏe đời sống - monngonhanoi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét