Nho
dại, Nho cong queo - Vitis flexuosa
Thunb., thuộc họ Nho - Vitaceae.
Khu vườn giống nho dại Sáu Lang - Ảnh: Thiện Nhân
Mô tả:
Cây leo trườn, ít lông, tua cuốn chẻ hai. Lá hình trái xoan tam giác,
dài 6cm, có lông ở gân mặt dưới, gân gốc 5. Chùm hoa đối
diện với lá; đài hình đĩa, cánh hoa 4, dính thành chóp, 4 nhị có
bao phấn tròn. Quả tròn to 6-7mm, hột 3-4.
Mùa
hoa tháng 5-6.
Bộ phận dùng:
Rễ, lá - Radix et Folium Vitidis
Flexuosae.
Nơi sống và thu hái:
Loài phân bố ở Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, cũng gặp
mọc hoang ở một số nơi thuộc Nam Bộ Việt Nam. Thu hái rễ vào
mùa thu, rửa sạch, dùng tươi hay phơi khô. Lá thường dùng tươi.
Tính vị, tác dụng:
Rễ có vị ngọt, tính bình; có tác dụng trừ phong thấp, lợi
tiểu, chống viêm, giúp tiêu hoá. Lá có vị chua, tính bình; có tác
dụng cầm máu, tiêu sưng, chống viêm.
Công dụng:
Quả có thể dùng ăn và chế rượu, rễ được dùng trị phong
thấp, khớp xương đau nhức, viêm gan vàng da, tiêu hoá kém, cụm
nhọt, viêm vú. Lá dùng trị ho ra máu, eczema. Liều dùng 15-30g,
dạng thuốc sắc. Dùng ngoài lấy dịch lá bôi vết thương hoặc
đun sôi lá lấy nước rửa.
Đơn thuốc:
1.
Đau thấp khớp: Rễ Nho dại 15-30g sắc uống với rượu. Đồng
thời giã rễ tươi đắp vào chỗ đau.
2.
Viêm gan vàng da: Rễ Nho dại, Nhân trần Trung Quốc (Artemisia capillaris), Cà tàu (Solanum
lyratum) mỗi vị 15g, sắc uống.
3.
Eczema: Lá nho dại tươi, giã ra chiết dịch và chấm vào những
chỗ đau.
Hoặc
đun sôi lấy nước, thêm tí phèn và muối để rửa ngoài.ST
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét