Có rất nhiều lý do để ăn chay. Người thì ăn chay vì
theo đạo, còn có người ăn chay vì bản thân không thích hoặc không thể
ăn thịt động vật. Ngày nay, xu hướng ăn chay càng phát triển mạnh ở
nhiều nước trên thế giới với mục đích phòng và hỗ trợ trong việc chữa
trị một số bệnh lý mãn tính liên quan đến ăn uống.
Ngoài giới tu hành với nhiều kiểu ăn chay của mỗi
đạo giáo, kiểu ăn chay sẽ thay đổi tuỳ mỗi người. Nguyên tắc chung của
ăn chay thường là ăn thức ăn bao gồm ngũ cốc, rau, khoai, củ, đậu, trái
cây, các loại hạt và dầu, có hoặc không có sữa và trứng.
Ẩn hoạ từ bữa ăn chay
Thực phẩm ăn chay thường có năng lượng thấp, vì vậy
mà người ăn chay rất mau đói. Nếu không ăn đa dạng thực phẩm thì rất dễ
bị thiếu dinh dưỡng gây ra gầy ốm và suy giảm sức đề kháng, dễ bị bệnh
nhiễm trùng. Tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng như thiếu chất sắt tạo
máu, thiếu kẽm, thiếu vitamin B12... với biểu hiện là thiếu máu có thể
xảy ra do các chất này có nhiều trong các thức ăn có nguồn gốc động vật
như thịt, cá, trứng, gan, huyết, hải sản... và dễ hấp thụ vào cơ thể.
Thức ăn có nguồn gốc thực vật cũng có chất sắt nhưng
tỷ lệ thấp và cũng khó hấp thụ hơn. Nếu bữa ăn chay quá đơn điệu như chỉ
ăn cơm với rau cải luộc chấm tương, chao hoặc cơm muối tiêu, bún nước
tương thì nguy cơ thiếu chất rất cao. Việc ăn thiếu chất đạm cũng có thể
gây ra chứng biếng ăn, nhão cơ, dễ nhiễm trùng, đặc biệt ở trẻ em,
thanh thiếu niên, phụ nữ mang thai và cho con bú và bệnh nhân trong giai
đoạn cần dinh dưỡng phục hồi bệnh (là đối tượng có nhu cầu dinh dưỡng
cao). Ngược lại nếu bữa ăn chay quá nhiều bột đường và dầu béo thì năng
lượng cao có thể dẫn đến tình trạng thừa cân, béo phì.
Ăn chay thế nào mới đúng cách?
Thành phần thức ăn chay thường nhiều chất xơ, ít
cholesterol, giàu trái cây và vitamin các loại nên rất tốt cho sức khoẻ,
giúp phòng ngừa và hỗ trợ rất nhiều cho người mắc các bệnh lý mãn tính
liên quan đến ăn uống như béo phì, cao huyết áp, tiểu đường, bệnh tim
mạch, ung thư, sỏi mật, táo bón, sa sút trí tuệ, tai biến mạch máu não,
loãng xương. Tuy nhiên để ăn chay cho đúng cách, khoa học không phải dễ.
Muốn tránh những hậu quả ngoài mong muốn, người ăn chay nên lưu ý mấy
điều sau:
Ăn đủ ba bữa chính và hai đến ba bữa phụ để cung cấp
đủ năng lượng cho cơ thể. Ngoài ra nên tiếp xúc với ánh sáng mặt trời
khoảng 20 phút/ngày, lúc nắng sớm. Cơ thể sẽ tận dụng một nguồn vitamin D
của thiên nhiên, giúp tăng hấp thu canxi, xương sẽ chắc khoẻ hơn.
Các món ăn trong bữa chính phải đủ bốn nhóm chất bột
đường, đạm (đậu hũ, tàu hũ, sữa đậu nành, đậu phộng, muối mè, nấm, đậu
que, đậu đũa, đậu xanh...), dầu và rau, trái cây. Các bữa ăn cần đa dạng
và thay đổi món thường xuyên. Sắt có nhiều trong các loại đậu khô và
các loại rau có lá xanh thẫm. Tuy nhiên sắt trong thực vật không được cơ
thể hấp thu nhiều như sắt trong động vật, vì vậy bữa ăn nên có rau trái
để có nguồn vitamin C giúp hấp thụ chất sắt trong thức ăn. Để cung cấp
canxi, có thể uống thêm sữa bò, nếu không dùng sữa có thể chọn các loại
rau xanh thẫm, đậu nành, đậu hũ chế biến có canxi sulfat…
Uống thuốc bổ sung sắt, vitamin: người ăn chay
trường hoặc người có nhu cầu dinh dưỡng cao có thể uống thêm những loại
thuốc bổ này theo chỉ định của bác sĩ.
4 kiểu ăn chay thường gặp:
- Ăn chay có sữa và trứng (Lacto-ovovegetarian): không ăn thịt, gia cầm, cá.
- Ăn chay có sữa (Lacto-vegetarian): không ăn thịt, gia cầm, cá và trứng.
- Ăn chay có trứng (Ovo-vegetarian): không ăn thịt, cá, gia cầm, sữa và các chế phẩm của sữa.
- Ăn chay tuyệt đối (Vegan): không ăn thịt, cá, gia cầm, trứng, sữa và sản phẩm từ sữa.
Ngoài ra còn có một dạng ăn
chay “bán phần” là không ăn thịt đỏ (như thịt bò, thịt heo...) mà ăn
thịt trắng (gia cầm, cá, đậu hũ) và vẫn dùng trứng và sữa, các chế phẩm
từ sữa.
|
Theo SGTT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét